Lịch sử Sikkim

Thành lập chế độ quân chủ

Ít biết về lịch sử cổ đại của Sikkim, ngoài thực tế rằng các cư dân ban đầu là người Lepcha.[12] Các đề cập lịch sử sớm nhất về Sikkim là một ghi chép hành trình của đại sư Phật giáo Liên Hoa Sinh, ông đi qua vùng đất này vào thế kỷ 8.[6] Đại sư được thuật là đã ban phúc cho vùng đất, đưa đến Phật giáo, và báo hiệu thời kỳ quân chủ xảy đến tại Sikkim trong các thế kỷ sau đó. Theo truyền thuyết, Khye Bumsa là một thành viên trong thế kỷ 14 của nhà Minyak tại Kham thuộc đông bộ Tây Tạng, ông nhận được một thiên khải thần thánh chỉ dẫn ông đi về phía nam để tìm vận mệnh của mình. Phuntsog Namgyal là một hậu duệ đời thứ 5 năm Khye Bumsa, năm 1642 ba lạt ma đáng kính tôn phong ông làm Chogyal (pháp vương) đầu tiên tại Yuksom, chế độ quân chủ Sikkim hình thành.[13]

Tượng Liên Hoa Sinh (Guru Rinpoche), thánh bảo hộ của Sikkim. Tượng thần tại Namchi cao 36 mét.

Năm 1670, con của Phuntsog Namgyal là Tensung Namgyal kế vị vương vị, ông thiên đô từ Yuksom đến Rabdentse. Năm 1700, người Bhutan xâm chiếm Sikkim với sự giúp đỡ của người chị khác mẹ của Chogyal Chakdor Namgyal do bà muốn đoạt vị. Người Tạng đẩy lui người Bhutan và phục vị cho Chakdor Namgyal. Dưới thời Gyurmed Namgyal từ năm 1717 đến năm 1733, vương quốc phải ứng phó với nhiều cuộc đột kích của người Nepal ở phía tây và của người Bhutan ở phía đông, cực độ là việc người Nepal phá hủy kinh đô Rabdentse.[14] Năm 1791, triều Thanh đưa quân đến hỗ trợ Sikkim và phòng thủ Tây Tạng chống lại Vương quốc Gorkha tại Nepal hiện nay. Sau khi đánh bại Gorkha, triều Thanh thiết lập quyền kiểm soát đối với Sikkim.[15]

Sikkim thời Ấn Độ thuộc Anh

Sau khi Anh Quốc bắt đầu cai trị Ấn Độ, Sikkim liên minh với Anh Quốc để chống lại kẻ thù chung là Nepal. Người Nepal tấn công Sikkim, tràn ngập hầu hết khu vực, bao gồm cả Terai. Điều này thúc đẩy Công ty Đông Ấn Anh tấn công Nepal, dẫn đến Chiến tranh Gurkha năm 1814.[16] Các hiệp định được ký kết giữa Sikkim và Nepal, với kết quả là Nepal trao trả lại lãnh thổ bị họ thôn tính, vào năm 1817. Tuy nhiên, các quan hệ giữa Sikkim và người Anh trở nên suy yếu khi người Anh bắt đầu đánh thuế tại khu vực Morang. Năm 1849, hai bác sĩ Anh Quốc là Joseph Dalton Hooker và Arthur Campbell (người phụ trách quan hệ giữa chính phủ Anh Quốc và Sikkim), mạo hiểm tiến vào các dãy núi của Sikkim mà không báo trước và không được phép.[17] Hai bác sĩ bị chính phủ Sikkim giam giữ, khiến người Anh tiến hành một cuộc viễn chinh chống Sikkim, sau đó huyện Darjeeling và Morang bị sáp nhập vào Ấn Độ thuộc Anh năm 1853. Cuộc xâm chiếm khiến Chogyal của Sikkim trở thành một quân chủ danh nghĩa nằm dưới quyền chi phối của thống đốc Anh.[18] Năm 1890, Sikkim trở thành một nước bảo hộ của Anh, và dần được trao cho thêm chủ quyền trong ba thập niên sau đó.[19]

Sau khi Ấn Độ độc lập

Palden Thondup Namgyal (trị vì 1963-1975) của Sikkim.

Năm 1947, khi Ấn Độ độc lập, một cuộc tuyển cử đại chúng tại Sikkim có kết quả là từ chối gia nhập Ấn Độ, và Thủ tướng Jawaharlal Nehru chấp thuận một tình trạng bảo hộ đặc biệt đối với Sikkim. Ấn Độ có quyền tôn chủ đối với Sikkim, theo đó Ấn Độ kiểm soát đối ngoại, quốc phòng, ngoại giao và truyền thông của Sikkim, song Sikkim được giữ quyền tự trị hành chính. Một quốc vụ viện được thành lập vào năm 1953, cho phép có một chính phủ lập hiến dưới quyền Chogyal. Trong khi đó, Đảng Quốc đại Sikkim yêu cầu tổ chức tuyển cử mới và đại diện lớn hơn cho người Nepal tại Sikkim. Chogyal đương thời là Palden Thondup Namgyal tỏ ra rất không được lòng dân, và đến năm 1973, bạo loạn trước cung điện của Chogyal dẫn đến một yêu cầu chính thức về việc Ấn Độ bảo hộ.

Năm 1975, Thủ tướng Sikkim kêu gọi Quốc hội Ấn Độ cho phép Sikkim trở thành một bang của Ấn Độ. Vào ngày tháng 4 năm đó, Quân đội Ấn Độ chiếm được thành phố Gangtok và tước vũ khí vệ binh cung điện của Chogyal. Sau đó, một cuộc trưng cầu dân ý được tổ chức với kết quả là 97,5% cử tri đi bầu ủng hộ bãi bỏ chế độ quân chủ, tán thành hợp nhất với Ấn Độ. Mặc dù nhà cầm quyền Ấn Độ tuyên bố việc hợp nhất là theo ý nguyện của nhân dân Sikkim, song hành động này bị chỉ trích rộng rãi là một hành động thôn tính và Ấn Độ bị cáo buộc lợi dụng khai thác chia rẽ sắc tộc và gian lận trong trưng cầu dân ý.[20] Ngày 16 tháng 5 năm 1975, Sikkim trở thành bang thứ 22 của Ấn Độ.[21] Để cho phép hợp nhất bang mới, Quốc hội Ấn Độ sửa lại Hiến pháp Ấn Độ. Đầu tiên là tu chính án 35 định ra một bộ các quy định mà theo đó Sikkim trở thành một "quốc gia liên kết".[22] Sau đó, tu chính án 36 công nhận Sikkim là một bang đầy đủ, được thêm tên vào điều thứ một trong Hiến pháp.[23]

Chính phủ Trung Quốc công nhận Sikkim là một bang của Ấn Độ vào năm 2003, với điều kiện Ấn Độ chính thức công nhận Tây Tạng là một bộ phận của Trung Quốc.[24] Hiệp định năm 2003 làm tan băng quan hệ Ấn-Trung,[25] và đến ngày 6 tháng 7 năm 2006, đèo Nathu La trên dãy Himalaya thuộc Sikkim được mở cửa cho mậu dịch xuyên biên giới, trở thành biên giới mở đầu tiên giữa hai quốc gia sau chiến tranh Trung-Ấn.[5]